1. VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ
Ngô Quyền (897-944) người đất Đường Lâm (nay thuộc
huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây nay là Hà Nội).
Thân phụ của Ngô Quyền là Ngô Mân, làm chức Châu Mục ở
bản châu, một hào trưởng có tài. Khi Ngô Quyền mới sinh, đầy nhà có ánh sáng
lạ, có ba nốt ruồi ở lưng, dáng mạo thật khác thường, thầy bói cho là có tướng
tốt, có thể làm chúa cả một phương, vì thế thân phụ mới đặt tên là Quyền. Ngô
quyền lớn lên, khôi ngô tuấn tú, mắt sáng như chớp, dáng đi như hổ, gồm đủ trí
và dũng, sức có thể nâng được vạc lớn, lớn lên trên quê hương có truyền thống
bất khuất, nơi sản sinh và nuôi dưỡng người anh hùng dân tộc Phùng Hưng. Sớm tỏ
rõ chí khí phi thường hiếm thấy Ngô Quyền làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ, được
Dương Đình Nghệ gả con gái cho, đồng thời trao quyền cai quản vùng Ái Châu (Thanh
Hóa), trong 5 năm Ngô Quyền đã đem lại yên vui cho vùng đất Ái Châu, tỏ rõ là
người có tào đức.
Dương Đình Nghệ có người con nuôi, tên là Kiều Công Tiễn.
Kiều Công Tiễn là kẻ bất trung. Bất hiếu vì tham cố quyền vị, chỉ biết đến
những quyền lợi ích kỷ của bản thân. Tháng 3 năm 937, Kiều Công Tiễn đã giết
chết chủ tướng cũng như là cha nuôi Dương Đình Nghệ rồi đoạt lấy chức quyền.
Căm phẫn trước hành động đó, tháng 12 năm 938, từ Ái Châu, Ngô Quyền đã đem
quân ra hỏi tội Kiều Công Tiễn. Hoảng sợ trước lực lượng của Ngô Quyền. Kiều
Công Tiễn đã sai sứ đem của cải sang đút lót cho vua nước Nam Hán để cầu cứu. Vua
Nam Hán nhân đó cho quân sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền sau đó đã giết chết
Kiều Công Tiễn, đồng thời đánh trận quyết chiến chiến lược với quân Nam Hán
quét sạch kẻ thù ra khỏi bờ cõi.
Mùa xuân năm Kỷ hợi 939, Ngô Quyền xưng vương, lập
triều ngô, dựng nền độc lập và tự chủ, đóng đô ở Cổ Loa kinh đô cũ của An Dương
Vương.
Tổ chức triều đình là vua đứng đầu, bên dưới chia
thành hai ngạch văn và võ, vua là người quyết định mọi việc về quân sự, chính
trị, ngoại giao, về đơn vị hành chính có thái sử và thái thú.
Hai người con trai của ông là Ngô Xương Ngập và Ngô
Xương Văn còn nhỏ tuổi, người cậu Dương Tam Kha nhân cơ hội đó cướp ngôi và tự
xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập thấy vậy chạy trốn lánh nạn, để tránh bị
phản đối và sảy ra xung đột Dương Tam Kha chọn Ngô Xương Văn làm con nuôi và
giao nhiệm vụ trấn áp các thế lực nổi dậy ở các địa phương, nhân cơ hội đó Ngô
Xương Văn cùng sự giúp đỡ của các tướng cũ đã đem quân về lật đổ Bình Vương
Dương Tam Kha và cho người tìm lại người anh trai Ngô Xương Ngập về lại để cùng
trông coi việc nước nhà. Nhưng sau khi Ngô Xuwowg Ngập về thì lại chuyên quyền
và gây ra sự mâu thuẫn bất hòa giữa hai anh em nên các thế lực nổi dậy ở địa
phương ngày càng nhiều.
Năm 954 Ngô xương Ngập chết, năm 965 Ngô Xương Văn bị
trúng tên và chết trong một trận đem quân đi đàn áp ở Thái Bình.
Các con của Ngô Quyền đều không phải là những người có
tài cầm quân và trị nước, vì thế, loạn lạc đã liên tiếp xẩy ra ngay khi họ đang
ở ngôi.
2. NGÔ QUYỀN VỚI TRẬN QUYẾT CHIẾN CHIẾN LƯỢC Ở BẠCH
ĐẰNG NĂM MẬU TUẤT (938).
Vài nét về Nam Hán
Kẻ bị Ngô Quyền đánh cho đại bại là quân Nam Hán, vậy,
Nam Hán là ai? Mưu đồ cụ thể của quân Nam Hán đối với nước ta lúc bấy giờ như
thế nào?
Chính sử của Trung Quốc cho hay, năm Đinh Mão (907),
nhà Lương sụp đổ, Trung Quốc lâm vào một thời kỳ loạn lạc, sử gọi là thời Ngũ
Đại Thập Quốc (nghĩa là năm đời, mười nước). Ngũ Đại gồm: Hậu Lương, Hậu Đường,
Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Còn Thập Quốc thì gồm có:
- Ngô do Dương Hành Mật lập nên ở vùng An Huy của
Trung Quốc ngày nay.
- Tiền Thục do Vương Kiến lập nên ở vùng Tứ Xuyên của
Trung Quốc ngày nay.
- Ngô Việt do Tiền Cù lập nên ở vùng Chiết Giang của
Trung Quốc ngày nay.
- Sở do Mã Ân lập nên ở vùng Hồ Nam của Trung quốc
ngày nay.
- Mân do Vương Thẩm Tri lập nên ở vùng Phúc Kiến của
Trung Quốc ngày nay
- Nam Hán do Lưu Ẩn lập nên ở vùng Quảng Đông của
Trung Quốc ngày nay.
- Nam Bình do Cao Bảo Dung lập nên ở vùng Hồ Bắc của
Trung Quốc ngày nay.
- Hậu Thục do Mạnh Tri Tường lập nên, cũng ở vùng Tứ
Xuyên của Trung Quốc ngày nay.
- Nam Đường do Lý Thăng lập nên ở vùng Giang Tô của
Trung Quốc ngày nay.
- Bắc Hán do Lưu Sùng lập nên ở vùng Sơn Tây của Trung
Quốc ngày nay.
Như vậy, trong số mười nước kể trên, Nam Hán là nước
có chung đường biên giới với nước ta, qua lại nước ta dù là bằng đường bộ hay
đường biển đều thuận tiện. Vua sáng nghiệp của Nam Hán là Lưu Ẩn (cũng tức là
Lưu Nghiễm, Lưu Yêm, Lưu Thiệp hay Lưu Cung…) vốn là kẻ kiệt hiệt. Nam Hán có
tiềm lực khá mạnh. Tháng 7 năm Canh Dần (930), vua Nam Hán từng sai tướng Lý
Khắc Chính (cũng có sách chép là Lương Khắc Chính) đem quân sang xâm lược nước
ta. Cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo bị thất bại, nước ta bị quân Nam
Hán thống trị từ cuối năm 930 đến cuối năm 931. Tháng 12 năm 931, vì bị Dương
Đình Nghệ đem quân từ Ái Châu (Thanh Hóa) ra tấn công bất ngờ và dồn dập, chúng
mới phải tháo chạy vế nước.
Thời Dương Đình Nghệ đứng đầu chính quyền độc lập và
tự chủ (từ cuối năm 931 đến đầu năm 937), Nam Hán cũng từng nuôi tham vọng xâm
lăng nước ta, vừa để có thể bành trướng xuống phương Nam, vừa rửa mối nhục thất
bại như đã nói ở trên nhưng chúng chưa có cơ hội thực hiện. Cuối năm Mậu Tuất
(938) nhân được Kiều Công Tiễn cầu cứu, Nam Hán liền quyết chí sang đánh nước
ta lần thứ hai.
Bấy giờ, Nam Hán không phải là nước lớn, nhưng ta lại
là một nước nhỏ, đất đai đại để mới từ vùng Quảng Bình trở ra mà thôi. Tính
chất nguy hiểm của cuộc xâm lăng này không phải chỉ có từ phía quân Nam Hán mà
còn có cả ở phía lực lượng phản dân, hại nước do Kiều Công Tiễn cầm đầu. Vua
Nam Hán tự mình soạn thảo kế hoạch, bất chấp mọi lời can ngăn của quan lại dưới
quyền. Con trai của vua Nam Hán là Vạn Vương Lưu Hoằng Thao được cử làm tướng
tổng chỉ huy quân xâm lăng. Bản thân vua Nam Hán thì điều thêm quân ra đóng ở
Hải Môn (vùng Tây Nam, huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngay nay) để
làm thanh viện.
Quần thần vẫn tiếp tục can ngăn. Vua Nam Hán bèn đến
hỏi ý của quan giữ chức Sùng Văn Sứ là Tiêu Ích. Và, Tiêu Ích đã trả lời một
cách rất khôn ngoan, vừa không làm phật lòng vua Nam Hán, vừa có thể giữ yên
thân mình. Tiêu Ích nói:
“Nay mưa dầm đã mấy tuần mà đường biển thì xa xôi và
nguy hiểm, trong khi đó, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể nào khinh
suất được. Đại quân của ta phải tiến một cách thận trọng và chắc chắn, tốt
nhất, hãy nên dùng người hướng đạo đi trước rồi sau hãy cất quân đi” (Đại Việt
sử ký toàn thư, ngoại kỷ, quyển 5, tờ 19-a).
Nhưng. vua Nam Hán vẫn không nghe theo lời khuyên của
Tiêu Ích. Tháng 12 năm Mậu Tuất (938), quân Nam Hán rầm rộ vượt biển tiến vào
nước ta qua ngả sông Bạch Đằng.
Bạch Đằng là một con sông ngắn nhưng rất rộng và sâu.
Sông vốn có tên Nôm là sông Rừng, nhưng vì sông này thường có sóng bạc nổi lên,
nhân đó mới có tên chữ là Bạch Đằng. Cửa sông Bạch Đằng xưa nay đều có tên là
cửa Nam Triệu, cũng vì thế, con sông này còn có tên là sông Nam Triệu. Tuy
nhiên, cửa Nam Triệu thời Ngô Quyền nằm ở vị trí sâu hơn, vào khoảng ngã ba của
sông Cấm và sông Bạch Đằng hiện nay. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì sự vận động
địa chất, dẫn đến sự biến đổi địa hình của vùng Đông Bắc nước ta trong hơn một
nghìn năm qua. Từ vùng biển Đông Bắc, Bạch Đằng là con sông tiện lợi nhất để
thủy quân có thể men theo đó mà tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
Trận Bạch Đằng
Cuối năm 938, để cứu nguy cho vận nước, Ngô Quyền đã
có hai quyết định quan trọng. Một là nghiêm trị Kiều Công Tiễn, kẻ đã giết hại
Dương Đình Nghệ và sau đó đã cam tâm đi cầu cứu quân Nam Hán. Giết Kiều Công
Tiễn tức là tiêu diệt chỗ dựa của quân xâm lăng. Giết Kiều Công Tiễn tức là để
bảo vệ đạo lý và nghĩa khí của dân tộc. Giết Kiều Công Tiễn cũng tức là để tạo
ra sự ổn định hậu phương trước khi đại quân xuất trận. Hai là Ngô Quyền đã vạch
kế hoạch đánh gục quân Nam Hán xâm lăng. Binh pháp cổ thường nhấn mạnh câu tri
bỉ tri kỉ bách chiến bách thắng (biết người biết ta, trăm trận trăm thắng).
Những ghi chép của sử cũ cho thấy Ngô Quyền đã biết rất rõ mưu đồ của quân Nam
Hán lúc bấy giờ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5, tờ 19-b) chép
rằng:
“Ngô Quyền nghe tin Hoằng Thao sắp đến, liền nói với
các tướng dưới quyền rằng:
Hoằng Thao là đứa trẻ khờ dại. Hắn đem quân từ cõi xa
đến, lính tráng đều mỏi mệt, đã thế, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã bị giết
rồi. Mất kẻ nội ứng, hẳn nhiên là chúng đã bị mất vía từ trước. Ta nay lấy quân
khỏe mạnh để đánh quân mỏi mệt, ắt là phải phá được. Nhưng, bọn chúng lợi thế ở
chiến thuyền, nếu ta không lo phòng bị trước thì chưa biết sẽ ra sao. Nay, nếu
ta sai người đem cọc lớn, vạt nhọn và bịt sắt, ngầm đóng sẵn ở cửa biển, rồi
nhân khi nước triều lên cao (che khuất bãi cọc) mà dụ cho chiến thuyền của
chúng tiến vào thì sau đó ắt sẽ dễ bề chế ngự, quyết không cho chiếc nào chạy
thoát”.
Xưa nay, cửa sông Bạch Đằng đều rất sâu, có chỗ sâu
đến 18 mét. Độ sâu ấy, không cho phép đóng cọc theo lối giăng ngang mà chỉ có
thể đóng ở hai bên mé sông, nơi thuyền bè thường xuôi ngược. Công việc dựng bãi
cọc gỗ vạt nhọn và bịt sắt được tiến hành khẩn trương nhưng cũng rất công phu.
Hàng ngàn người được huy động đi đốn cây. Hàng trăm thợ được điều đến để bịt
sắt vào cọc gỗ. Đông đảo quân sĩ đã tham gia vào việc tạo dựng bãi cọc này.
Trước khi giao chiến với Hoằng Thao, Ngô Quyền đã nghiên cứu rất kĩ chế độ thủy
văn của sông Bạch Đằng và chính phần hiểu biết quan trọng này đã dự phần không
nhỏ vào thắng lợi chung.
Sau khi hoàn tất bãi cọc gỗ, Ngô Quyền đã bố trí lực
lượng như sau:
- Đại binh của Ngô Quyền bố trí ở ngay phía sau bãi
cọc gỗ: tất cả được mai phục sẵn trong những lùm cây mọc đầy ở ven sông.
- Phía tả ngạn sông Bạch Đằng là đạo quân do Dương Tam
Kha (con Dương Đình Nghệ, em vợ của Ngô Quyền) chỉ huy.
- Phía hữu ngạn là đạo quân do Ngô Xương Ngập (con
trai của Ngô Quyền) và tướng Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy.
- Vị tướng trẻ có tài bơi lội và rất thông thuộc sông
nước Bạch Đằng là Nguyễn Văn Tố được giao nhiệm vụ ra phía trước bãi cọc để
khiêu chiến.
Về diễn biến của trận Bạch Đằng, sách Đại Việt sử ký
toàn thư (ngoại kỷ, quyển 5, tờ 19-b và tờ 20-a) chép như sau:
“Định xong kế sách rồi, (Ngô Quyền) bèn cho đóng cọc
gỗ ở hai bên cửa sông. Khi nước triều lên, (Ngô) Quyền sai người đem thuyền nhẹ
ra khiêu chiến rồi giả thua để dụ địch đuổi theo. Bọn Hoằng Thao quả nhiên tiến
nhanh vào. Khi chiến thuyền của chúng đã nằm hết ở trong bãi cọc thì thủy triều
cũng vừa rút, khiến cho cọc nhô dần lên. Bấy giờ, (Ngô) Quyền mới tung quân ra,
ai nấy cũng đều liều chết để chiến đấu. Nước triều rút quá nhanh, quân Hoằng
Thao trở thuyền không kịp nên đều vướng cọc mà lật úp. Lũ giặt rối loạn rồi tan
vỡ, quân lính chúng bị chết đuối đến hơn một nửa. (Ngô) Quyền thừa thắng đánh
đuổi rất gấp, bắt được Hoằng Thao, đem giết đi. Vua Nam Hán (đóng ở Hải Môn,
nghe tin dữ) liền thương khóc, thu nhặt tàn quân (của Hoằng Thao tháo chạy đến)
và rút về. Vua Nam Hán cho rằng, tên mình là Lưu Cung thật đáng ghét lắm vậy”.
Danh thơm còn mãi với thiên thu
Trận Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận thủy
chiến xuất sắc của lịch sử nước nhà. Với chiến thắng này, Ngô Quyền đã đè bẹp
hoàn toàn tham vọng bành trướng xuống phương Nam của Nam Hán, khẳng định một
cách hiên ngang kỷ nguyên độc lập và tự chủ của nước nhà. Với chiến thắng này,
Ngô Quyền thực sự trở thành một anh hùng dân tộc, một thiên tài quân sự của
nước nhà. Ngô Quyền đã để lại cho hậu thế những kinh nghiệm vô giá trong tổ
chức và chỉ huy thủy chiến. Ông là người đầu tiên dùng bãi cọc và cũng là người
đầu tiên biết tận dụng thủy triều vào trận mạc. Trận Bạch Đằng năm 938 là một
trong những trận mẫu mực của sự hợp đồng tác chiến giữa thủy binh với bộ binh,
cũng là một trong những trận mẫu mực của sự kết hợp hài hòa giữa mai phục với tấn
công tiêu diệt. Từ trận Bạch Đằng, tên tuổi và sự nghiệp của Ngô Quyền chói
sáng trong sử sách và trong ký ức bất diệt của các thế hệ nhân dân ta. Trong
Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) viết:
“Nếu không có trận đại thắng này thì nhuệ khí của bọn
Lưu Nghiễm vẫn còn, và cái cơ bị ngoại thuộc lại dần dần nổi lên. Cho nên, trận
Bạch Đằng chính là gốc rễ của sự khôi phục quốc thống. Sau này, các đời Đinh,
Lê, Lý, Trần... cũng được nhờ ở dư âm của sự oanh liệt ấy. Võ công hiển hách
của Ngô Quyền, thực sự là để tiếng thơm đến muôn đời chứ đâu phải chỉ sáng rỡ
trong nhất thời đâu”.
Sau thất bại thảm hại ở Bạch Đằng, nước Nam Hán vẫn
tiếp tục tồn tại và phát triển thêm một thời gian nữa, nhưng trong suốt thời
gian đó, chúng không dám bén mảng đến nước ta. Nhận xét về thực trạng của Nam
Hán lúc bấy giờ, sử thần Ngô Sĩ Liên viết:
“Lưu Cung tham đất của người, muốn mở rộng bờ cõi,
nhưng đất không lấy được mà lại để mất đứa con của mình, đã thế, còn gây hại
cho dân. Mạnh Tử nói “đem cái mình chẳng yêu mà hại cái mình yêu”, đại để là
như thế này chăng?”.
Bài viết rất ý nghĩa, cám ơn bạn đã chia sẻ
ReplyDeleteclick xem thêm Gia sư Bình Dương