Quang Dũng là nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc…
nhưng thành công nhất vẫn là thơ ca. Các tập thơ tiêu biểu của Quang Dũng được
bạn đọc biết đến nhiều như “Mây
đầu ô”, “Mùa hoa gạo”… Nhưng tên tuổi của Quang Dũng có lẽ đã gắn liền với bài
thơ Tây Tiến. Bài thơ ra đời vào năm 1948 in trong tập “Mây đầu ô” là bài thơ
tiêu biểu nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ có giá trị nội
dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Tây Tiến là một phân hiệu bộ đội được thành lập đầu năm 1947. Thành phần
chủ yếu là thanh niên trí thức Hà Nội. Nhiệm vụ của họ là phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới phía Tây. Năm 1948, Tây Tiến giải thể để thành lập trung
đoàn 52. Quang Dũng cũng chuyển sang đơn vị khác. Sau khi rời đơn vị cũ chưa
được bao lâu Quang Dũng đã sáng tác bài thơ này. Đoạn thơ ta đang phân tích là
đoạn thơ thứ hai trong bài Tây Tiến.
Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí
tươi vui của đêm
liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kia em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội
văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và
góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm
vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội. Ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc
hoa” (“Đuốc hoa” là hoa chúc – cây nến đốt lên trong phòng cưới, đêm tân
hôn) . Ở đây, “đuốc hoa” có ý nghĩa là gợi không khí ấm cúng gợi niềm vui, niềm
hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ . “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa
trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói
tưng bừng rộn rã. Tố Hữu khi nhớ về Việt Bắc cũng từng viết về đêm liên hoan:
“Nhớ sao lớp học i tờ/ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”. Có thể hình
dung đêm hội mà Quang Dũng viết trên đây như một đám cưới tập thể.
Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ
ngàng của lính Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm
áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp
rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng
đến trang phục. Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các
thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ. Quang Dũng không khỏi không
thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh
với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Những thiếu nữ Mường, những thiếu nữ Thái, những
cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ. Cũng
có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất
độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ.
Ngỡ ngàng nữa là tiếng khèn “man điệu”. Khèn là một loại nhạc cụ của
người dân tộc miền núi Tây Bắc còn “man điệu” là một điệu nhạc “lạ” đặc trưng
văn hoá của những con người nơi đây. Và hòa vào tiếng khèn ngất ngây ấy là điệu
múa Lam vông quyến rũ của những cô gái Lào đã “xây hồn thơ” trong lòng các
chàng lính trẻ. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến
gốc Hà Nội hào hoa. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh
cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thăng hoa, mọi mỏi mệt như bị đẩy lùi,
thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ . Chính vì thế mọi cảm giác mỏi
mệt, mọi vất vả đều tan biến. Thay vào đó là niềm lạc quan, yêu đời nâng bước
họ mạnh mẽ hơn trên con đường hướng về “Viên Chăn xây hồn thơ”. Từ đó, ta có
thể thấy được rằng các chiến sĩ của chúng ta dù trong những giờ phút vui vẻ,
thoải mái nhất thì tâm hồn của họ vẫn luôn hướng về lí tưởng cách mạng cao đẹp.
Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc vừa thực
vừa mộng hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị. Cả bốn câu là cảnh
sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
So với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hoà
hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ trung, yêu đời của các chiến sĩ Tây
Tiến thì bốn dòng thơ tiếp theo, Quang Dũng đưa người đọc đến với hình ảnh của
con người và núi rừng Tây Bắc trong một buổi chiều sương ... Một không gian
bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Thiên nhiên Tây Bắc
hiện lên theo chiều hướng nhẹ hoá. Cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi đi và
thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng. Hình ảnh đầu tiên là hình
ảnh chiều sương cho ta thấy nét đặc trưng vốn có của
núi rừng nơi đây. Nhưng sương ở đây ko phải là sương lấp, sương che hay sương
phủ mà là ''Người đi Châu Mộc chiều sương ấy''. Nó gợi màu sắc bảng lảng, sương
khói vừa có nỗi buồn man mác. Đại từ ''ấy'' làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương để
nhấn mạnh rằng đây là một buổi chiều sương rất đặc biệt, chiều sương trong nỗi
nhớ đã thành kỷ niệm nên tình người cũng man mác, bâng khuâng!
Đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng
của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Có lẽ chất
họa sĩ của Quang Dũng đã ăn vào thơ ở đoạn này. Nét bút phác thảo của Quang
Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và
con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Sông nước hoang dại như một bờ tiền sử, bên bờ lau lách và tác giả đã
cảm nhận những cánh lau qua hai từ vô cùng tinh tế, đó là ''hồn lau''... gợi
cảm giác hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng vừa có chút gì đó thiêng
liêng phảng phất chút tâm linh rừng núi. “Nẻo bến bờ” có nghĩa là : nẻo – lối
đi. Nẻo bến bờ là nhìn đâu cũng thấy mênh mang hồn lau. “Hồn lau” - những
cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm,
tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy.
“Ngàn lau cười trong nắng
Hồn của mùa thu về
Hồn của mùa thu đi
Ngàn lau xao xác trắng”
(Chế Lan Viên)
Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Giữa
hình ảnh thiên nhiên Tây Băc hiện lên đầy sức sống và lãng mạn thì hình ảnh con
người nơi đây hiện lên mang một vẻ đẹp khỏe khoắn, bất khuất, kiên cường: ''Có
nhớ dáng người trên độc mộc''. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như chạm
khắc vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Độc mộc là một
loại thuyền được làm từ thân cây gỗ lớn, dài. Dáng người trên độc mộc ở đây có
thể là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái Thái, Mèo đang đưa các
chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ
Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông , vượt thác dữ tiến về phía
trước. Tất cả những hình ảnh ấy đều đã để lại trong lòng của Quang Dũng một
hình ảnh khó phai nhoà...
Thiên nhiên Tây Bắc vốn nổi tiếng với con sông Mã, một dòng sông đã chứa
trong nó biết bao dữ dội. Nhưng ở đây, dòng sông Mã đã hiện lên với sự nhẹ
nhàng đến kỳ lạ. Những cánh hoa rừng ko bị ''dồi lên dập xuống'' mà là
“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa''. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất
gợi: Cánh hoa rừng như cũng quyến luyến con người. Cánh hoa rừng như bàn tay
vẫy chào người lính, tiễn người lính vượt sông đi đánh giặc.
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành
công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị,
hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa. Những từ ngữ như “có nhớ”, “có thấy”
luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi. Tất cả đã tạo nên một bài
thơ hay và giàu giá trị.
Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên
khung cảnh thiên nhiên , con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ , thơ mộng , trữ
tình . Chất nhạc , chất hoạ , chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong
đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm
mại , tinh tế , uyển chuyển . Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa , lãng
mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ .
This comment has been removed by the author.
ReplyDeleteDoanh trại bừng lên hội đuốc hoa
ReplyDeleteKia em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
“Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi diễn ra lễ hội văn hóa đậm đà tình quân dân. Đồng bào dân tộc đã tụ họp về đây để sinh hoạt và góp vui tinh thần với bộ đội Tây Tiến. Từ “Bừng” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội
đoạn phân tích này hay nhất
click xem thêm Tại đây