Có thể nói tự nhiên có vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống của con người. Tự nhiên không chỉ làm môi
trường để con người sinh sống mà là môi trường để con người sáng tạo ra những
giá trị văn hoá. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới
gió mùa. Khí hậu nơi đây nóng ẩm mưa nhiều là điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển nghề nông nghiệp lúa nước. Từ xa xưa người Việt Nam đã biết ứng xử sao
cho phù hợp với tự nhiên để sinh tồn. Chính những nét đặc trưng về điều kiện tự
nhiên lại là cơ sở hình thành nền văn hoá vô cùng đặc sắc của dân tộc Việt Nam,
nó là bản sắc riêng - là cái hồn của dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử,cùng
với sự giao lưu tiếp biến của văn hoá bên ngoài nhưng người Việt vẫn giữ được bản
sắc văn hoá của mình.
Điều đó có thể thấy điều
kiện địa lý có vai trò vô cùng quan trọng trong nền văn hóa của Việt Nam,và
cũng là một trong những lý do để chúng ta đến với đề tài này.
1.
Địa hình :
Việt Nam là một quốc gia
nhiệt đới với những vùng đất thấp, đồi núi, nhiều cao nguyên với những cánh rừng
rậm. Đất đai có thể dùng cho nông nghiệp chiếm chưa tới 20%. Đất nước bị chia
thành miền núi, vùng đồng bằng sông Hồng ở phía bắc; và dãy Trường Sơn, Tây
Nguyên, đồng bằng duyên hải miền trung, và đồng bằng sông Cửu Long ở phía nam.
2.
Khí hậu :
Dọc theo lãnh thổ trải dài
khí hậu Việt Nam phân bố thành 3 vùng: miền bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, miền
trung mang đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong khi khi miền nam nằm trong
vùng nhiệt đới xavan. Khí hậu Việt Nam có độ ẩm tương đối trung bình 84-100% cả
năm. Tuy nhiên, vì có sự khác biệt về vĩ độ và sự khác biệt địa hình nên khí hậu
có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng. Trong mùa đông hay
mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa thường thổi từ phía
đông bắc dọc theo bờ biển Trung Quốc, qua vịnh Bắc Bộ, luôn theo các thung lũng
sông giữa các cánh cung núi ở Đông Bắc mang theo nhiều hơi ẩm; vì vậy ở đa số
các vùng việc phân biệt mùa đông là mùa khô chỉ là khi đem nó so sánh với mùa
mưa hay mùa hè. Trong thời gian gió mùa tây nam mùa hè, xảy ra từ tháng 5 đến
tháng 10, không khí nóng từ sa mạc Gobi phát triển xa về phía bắc, khiến không
khí ẩm từ biển tràn vào trong đất liền gây nên mưa nhiều.
Lượng mưa hàng năm ở mọi vùng đều lớn
dao động từ 120 đến 300 xentimét, và ở một số nơi có thể gây nên lũ. Gần 90% lượng
mưa đổ xuống vào mùa hè. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở đồng bằng nói chung hơi
cao hơn so với vùng núi và cao nguyên. Dao động nhiệt độ từ mức thấp nhất là
5°C từ tháng 12 đến tháng 1, tháng lạnh nhất, cho tới hơn 37 °C vào tháng 4,
tháng nóng nhất. Sự phân chia mùa ở nửa phía bắc rõ rệt hơn nửa phía nam, nơi
mà chỉ ngoại trừ vùng cao nguyên, nhiệt độ mùa chỉ chênh lệch vài độ, thường
trong khoảng 21-28 °C.
3.
Sông
ngòi :
Việt Nam hiện có 392 con
sông, chảy liên tỉnh được đưa vào danh mục quản lý của Cục đường sông Việt Nam
theo quyết định số 1989 ngày 1-11-2010 của Thủ tướng Chính phủ. Trong đó, 191
tuyến sông, kênh với tổng chiều dài 6.734,6 km được xem là tuyến đường sông quốc
gia.
Mạng lưới sông ngòi VN dày đặc, nhiều
nước, nhiều phù sa :
-
Địa hình VN chủ yếu là đồi núi được Tân Kiến Tạo làm trẻ lại
do đó có độ dốc lớn, trên đó lại được nhận lượng mưa khá lớn tập trung vào mùa
hạ đã tạo nên mạng lưới sông ngòi ( nước chảy tràn ) bao gồm hàng ngàn sông suối
lớn nhỏ với hình dạng, tính chất, hướng chảy khác nhau.
-
VN có mật độ sông suối dày đặc với 2360 con sông. Trung bình
cứ 1km sông/1km2. Tuy nhiên có sự phân bố không đồng đều giữa các nơi : những
vùng núi đá rắn, đá vôi mưa ít có mật độ sông ngòi thấp 0,5km sông/1km2. Tại
các sườn núi đón gió, có lượng mưa nhiều, mật độ sông suối khoảng 1,5km
sông/1km2. Riêng ở khu vực đồng bằng mật độ khá lớn khoảng 3 -4 km sông/1km2. Nếu
đi dọc bờ biển thì cứ các 20km lại có một cửa sông. Đa số sông VN là sông ngắn
và dốc ( có 2170 sông là sông nhỏ và ngắn – chiếm 92,5%, có diện tích lưu vực
khoảng 500km2 và dài dưi71i 100km ). Các sông lớn ở VN chỉ chiếm phần hạ lưu.
4.
Tài nguyên khoáng sản :
Việt Nam có vị trí địa chất,
địa lý độc đáo, là nơi giao cắt của hai vành đai sinh khoáng lớn Thái Bình
Dương và Địa Trung Hải, là nước nhiệt đới gió mùa phát triển mạnh các quá trình
phong hoá thuận lợi cho sự hình thành khoáng sản. Qua 65 năm nghiên cứu điều
tra cơ bản và tìm kiếm khoáng sản của các nhà địa chất Việt Nam cùng với các kết
qủa nghiên cứu của các nhà địa chất Pháp từ trước cách mạng tháng 8 đến nay
chúng ta đã phát hiện trên đất nước ta có hàng nghìn điểm mỏ và tụ khoáng của
hơn 60 loại khoáng sản khác nhau từ các khoáng sản năng lượng, kim loại đến
khoáng chất công nghiệp và vật liệu xây dựng.
Việt Nam được đánh giá là rất phong
phú và đa dạng tài nguyên khoáng sản do đặc điểm địa hình và khí hậu như: Đá
vôi,cát,đất sét, sắt, dầu khí, đồng… Trong đó, một số loại có trữ lượng lớn
như: than đá có trữ lượng lớn và chất lượng cao nhất khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh
một số loại đã kể trên thì những khoáng sản khác có trữ lượng nhỏ và phân tán
như : Urani, Địa nhiệt, Bauxit, Quặng titan (Ilmenit), …
II.
Mối quan hệ giữa điều
kiện địa lý và nền văn hóa của dân tộc Việt Nam:
Do điều kiện tự nhiên thuận
lợi, nền nông nghiệp nước ta phát triển rất sớm, ngay từ khi công cụ còn thô
sơ. Việt Nam là nước nông nghiệp truyền thống, tất cả các hoạt động của người
dân Việt Nam đều gắn bó với hoạt động nông nghiệp truyền thống và chính hoạt động
nông nghiệp đã chi phối rất nhiều đến đặc trưng văn hóa của người Việt.
1.
Văn hóa ẩm thực (ăn uống)
:
Người Việt có câu : “có thực
mới vực được đạo” nó nói đến tầm quan trọng của việc ăn uống. Ăn không chỉ để
duy trì sự sống mà đối với nhiều dân tộc ăn còn là một nét đẹp văn hóa, đó là
nghệ thuật thưởng thức.
Mỗi vùng miền khác nhau thì có điều
kiện địa lý khác nhau chính vì vậy con người phải có những ứng xử nhất định để
phù hợp và thích nghi.
Ở những vùng châu thổ của vùng nhiệt
đới, có điều kiện thuận lợi để phát triển cây lúa nước, nên thức ăn chính của
con người là lúa gạo, tất cả các loại bánh đều chế biến từ lúa gạo. Còn những
vùng đồng bằng khô ở vùng cận nhiệt đới và ôn đới lương thực chính là lúa mì :
chẳng hạn như lương thực chính của người Nga là lúa mì bởi lãnh thổ nước Nga nằm
chủ yếu trong khu vực có khi hậu ôn đới nên các nông phẩm chính là lúa mì, lúa
mạch, hay ngô,…
Hay là ở những vùng thảo nguyên nguồn
thức ăn chính của con người là thịt, bởi đây là vùng có hoạt động chăn nuôi
phát triển, con người đã biết chế biến các món ăn từ thịt để đáp ứng cho cuộc sống
hằng ngày. Chẳng hạn như người Mông Cổ - với nền văn minh du mục truyền thống
chắc chắn sẽ ăn thịt nhiều hơn người Việt Nam.
Ăn uống là văn hóa, đó là
văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên, cho nên trong cơ cấu bữa ăn của người Việt
bộc lộc rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đó là cơ cấu
ăn thiên về thực vật với lúa gạo là thành phần đứng đầu bản “Người sống về gạo,
cá bạo về nước”, “cơm tẻ mẹ ruột”,…
Trong bữa ăn của ta, sau lúa gạo thì
đến rau quả. Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong hàng thức ăn động
vật của người Việt Nam là các loại thủy sản - sản phẩm đặc thù của vùng có nhiều
sông ngòi,cũng như diện thích biển lớn. Từ các loại thủy sản người Việt đã chế
tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm thì
chưa thành bữa ăn của người Việt. Cuối cùng, chiếm một vị trí khiêm tốn trong
cơ cấu bữa ăn Việt Nam mới là thịt. Phổ biến như thịt gà, thịt lợn, thịt heo,
thịt trâu,… các loại động vật của vùng nhiệt đới.Các loại gia vị như hành, gừng,
tỏi, riềng, rau mùi, rau răm,… cũng là những thứ không thể thiếu trong bữa ăn của
người Việt.
Ở một vùng nhiệt đới, sản phẩm nông
nghiệp rất đa dạng và phong phú, điều này được thể hiện ở bữa ăn của người Việt
có rất nhiều mon : cơm, canh , rau, dưa, cá, tôm, thịt,… và cách chế biến cũng
rất phong phú như :xào, nướng, luộc, hấp, kho, trộn,… Người Việt chủ yếu uống
nước trà, một thứ cây là sản vật của vùng cận nhiệt đới ( phía Bắc ) . Thức uống
hàng ngày, thức uống để mời khách, thức uống để cúng tế, lễ, tết… cũng là nước
trà.
Một số sinh hoạt ăn, uống, hút của
người Việt cũng mang đậm nét của một vùng nhiệt đới : ăn trầu, uống rượu, hút
thuốc lào,… tất cả những hoạt động này đã trở thành biểu tượng của văn hóa Việt
2.
Văn
hóa trang phục (văn hóa mặc) :
Quan trọng
đối với con người sau ăn là mặc. Nó giúp cho con người đối phó với cái nóng, cái
lạnh, mưa gió…. Từ mục đích ban đầu đối phó với môi trường tự nhiên, mặc dần trở
thành một nhu cầu không thể thiếu trong mục đích làm đẹp cho con người.
Việc mặc không chỉ
là ứng xử với môi trường tự nhiên mà nó còn để làm đẹp, mỗi dân tộc, mỗi quốc
gia điều có những trang phục truyền thống được coi là nét đặc trưng của văn hóa
dân tộc ví dụ như người Việt Nam có áo dài là trang phục truyền thống, người Nhật
Bản có bộ Kimono, …
Mỗi dân tộc có một
cách ăn mặc riêng, vì vậy mặc đã trở thành biểu tượng cho văn hóa dân tộc. Ở những vùng có khi hậu
nóng, nhiều ánh sáng con người sử dụng các loại vải mỏng mát, màu sáng. Ngược lại
ở những vùng có khí hậu giá lạnh con người đã biết sử dụng các loại vải giấy,
chất len sợi để đỡ lạnh hơn. Hay ở những vùng rừng núi con người đã biết ăn mặc
hòa đồng với thiên nhiên bằng các loại vải có màu sắc sặc sỡ tượng trưng cho
thiên nhiên núi rừng. Cái riêng trong cách ăn mặc
của người Việt trước hết là cái chất nông nghiệp trong chất liệu may mặc – đó
là các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là
chất liệu may mặc nhẹ thoáng phụ hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Đó
là sợi gai, đay, chuối, bông, tơ tằm,… Trang phục thường được chọn các màu âm
tính như đen, nâu, chằm, gụ, tím,.. và thường sử dụng các trong phụ có màu sắc
dương tính như đỏ, điều, vàng, xanh trong các dịp lễ hội.
Cách thức trang phục
của người Việt qua các thời đại bị chị phối bởi hai nhân tố chính là khí hậu
nhiệt đới nóng bức và công việc trồng lúa nước.
Đồ mặc ở phía dưới của
phụ nữ tiêu biểu và ổn định hơn cả là váy. Sở dĩ trải qua bao thời đại cái váy
vẫn được người dân ưa chuộng một phần vì nó là trang phục truyền thống, một phần
vì mặc váy không chỉ mát, ứng phó hiệu quả với khí hậu nóng bức mà còn rất phù
hợp với công việc đồng áng. Đối với nam giới thì cái khố mặc mát, phù hợp với
khí hậu nóng bức, dễ dàng thao tác trong lao động. Khi chiếc quần thâm nhập vào
Việt Nam nó được cải biến một cách linh hoạt thành quần lá tọa vừa thích hợp với
khí hậu nóng vừa thuận lợi cho hoạt động nông nghiệp.
Đồ mặc phía trên của
phụ nữ là chiếc yếm, đàn ông cởi trần. Có thành ngữ “váy vận yếm mang”, “cởi trần
đóng khố” đã miêu tả chính xác trang phục lao động truyền thống. Cách mặc với mục
đích ứng phó với môi trường tự nhiên dần dần trở thành một quan niệm về cái đẹp
của người Việt Nam. Ngoài xa khi lao động họ còn mặc áo cánh, áo bà ba, áo tứ
thân.
Do đặc điểm nước ta
nắng lắm mưa nhiều cho nên để ứng phó với khí hậu ấy nét đặc thù chung. Đội nón
rộng vành để tránh nóng và có mái dốc để nhanh thoát nước, che mưa. Và nón là
cũng là đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Ngoài ra người việc còn đội mũ, áo tơi
che mưa bằng cọ, một loài cây đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa.
3.
Văn
hóa ở và đi lại :
Việc ở là để đối phó
với các hiện tượng tự nhiên, những hiện tượng tự nhiên này luôn tác động trực
tiếp đến đời sống của con người. Con người không thể biến đổi được tự nhiên mà
chỉ có thể dựa vào tự nhiên và từng bước thích nghi với môi trường tự nhiên để
tồn tại.
Đối với người nông
nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm để đối phó với nóng lạnh, mưa nắng, gió bão, là một
trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn định. Nằm
trong khu vực là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt truyền thống
cũng mang đậm dấu ấn của môi trường sông nước. Những người chài lưới, chèo đò
thường lấy ngay thuyền bè làm nhà ở, nhiều gia đình tụ họp với nhau lại tạo nên
các làng chài, xóm chài…. Rồi nhiều người, tuy không sống bằng nghề sông nước
nhưng cũng làm nhà sàn để ứng phó với lũ lụt quanh năm. Đây là kiểu nhà rất phổ
biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn. Ngôi nhà Việt cổ thường làm với chiếc mái
cong mô phỏng hình thuyền - kỉ niệm sông nước.
Để ứng phó với môi
trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc phải là nhà cao cửa
rộng, tạo không gian thoáng mát giao hòa với thiên nhiên. Nơi được chọn phải
đáp ứng những yêu cầu trong việc chọn hướng nhà, hướng đất. Hướng nhà tiêu biểu
là hướng Nam vì Việt Nam gần biển, trong khu vực gió mùa, trong 4 hướng chỉ có
Nam và Đông Nam là tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương Đông và
gió lạnh thổi vào mùa rét từ phương Bắc, nhưng lại tận dụng được cái gió mát từ
phương Nam vào mùa nóng.
Ngoài ăn ở thì việc
đi lại cũng là để thích nghi với môi trường tự nhiên.
Trong xã hội Việt
Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên con người ít có nhu
cầu đi lại, có đi thì đi gần nhiều hơn xa, đồng thời địa hình không đồng đều, địa
hình núi cao chiếm phần lớn diện tích vậy nên giao thông trước kia kém phát triển.
Đến TK XIX mới chỉ có đường nhỏ, phương tiện đi lại vận chuyển , ngoài sức
trâu, ngựa , voi thì phổ biến là đôi chân, quan lại thì di chuyển bằng cáng, kiệu.
Tuy nhiên ở Việt
Nam, đường thủy và phương tiện đi lại bằng đường thủy lại khá phát triển vì có
hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và bờ biển dài, với các loại thuyền,
xuồng, bè , mảng, phà , tàu,...
C.
KẾT
LUẬN :
Văn hóa
là nét đặc trưng của mỗi một quốc gia, một dân tộc và được tạo thành bởi không
gian văn hóa. Mà không gian văn hóa gắn liền với lãnh thổ. Chính những đặc
trưng về không gian lãnh thổ chi phối đặc trưng của một nền văn hóa.
Như vậy có thể khẳng
định rằng điều kiện địa lý có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nên
nền văn hóa của một dân tộc, cũng như quá trình phát triển của nền văn hóa đó.
Trong bất cứ môi trường nào, con người đều chịu ảnh hưởng, chi phối bởi điều kiện
tự nhiên, môi trường sống và điều kiện sinh hoạt. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh
đó, con người không thể chống lại nó một cách thuần thực mà phải thích nghi với
môi trường sống để điều hòa nhịp sống của mình.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO :
1.
Tài liệu “Địa văn hóa thế giới” của PGS.TS Đậu Thị Hòa
2.
Bài giảng “Văn hóa học” của cô Phạm Thị Tú Trinh
3.
Từ điển bách khoa mở WIKIMEDIA
4.
Website http://luanvan.net.vn/
No comments:
Post a Comment